Chỉ số khối cơ thể (BMI) là chỉ số cân nặng theo chiều cao phân loại tình trạng thiếu cân, thừa cân và béo phì ở người lớn. Chỉ số này được sử dụng như một cách để đo lượng mỡ trong cơ thể. BMI được tính bằng cách chia cân nặng tính bằng kilogram cho bình phương chiều cao tính bằng mét (giá trị BMI biểu thị đơn vị kg/m2 và tất cả các giá trị BMI trong bài viết này đều được coi là được đo bằng đơn vị này). Có nhiều loại BMI khác nhau, được khám phá chi tiết bên dưới.
5 min. read
Ảnh chỉ mang tính chất minh họa
BMI thể hiện tình trạng thiếu cân
Kết quả BMI: Dưới 18.5
Những người thuộc nhóm này được định nghĩa là thiếu cân.
Thiếu cân có thể là dấu hiệu bạn không ăn đủ hoặc có thể chỉ ra tình trạng bệnh lý tiềm ẩn. Nếu bạn thiếu cân, hãy liên hệ với bác sĩ để được đánh giá thêm.
BMI thể hiện cân nặng bình thường
Kết quả BMI: Từ 18.5 đến 22.9
Cộng đồng y khoa khuyến cáo bạn nên giữ cân nặng trong phạm vi này.
BMI thể hiện tình trạng thừa cân
Kết quả BMI: Từ 23 đến 24.9
Những người thuộc nhóm này có thể có nguy cơ mắc bệnh béo phì.
Cũng có thể có nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe khác hoặc các vấn đề sức khỏe hiện tại sẽ trở nên trầm trọng hơn theo thời gian. Dựa trên các hướng dẫn lâm sàng của Châu Âu và Hoa Kỳ về quản lý béo phì ở người lớn, sau đây là những khuyến nghị có khả năng xảy ra nhất dựa trên phạm vi BMI.
Kết quả BMI từ 25 đến 29.9 là béo phì độ 1
Những người không mắc các vấn đề sức khỏe liên quan đến cân nặng (ví dụ: huyết áp cao hoặc cholesterol cao) được khuyến khích ăn uống lành mạnh và tăng cường hoạt động thể chất để ngăn ngừa tăng cân thêm.
Kết quả BMI từ >30 béo phì độ 2
Những người trong phạm vi này cũng có vấn đề sức khỏe liên quan đến cân nặng có thể được khuyến nghị giảm cân bằng cách kết hợp các biện pháp can thiệp lối sống và cân nhắc liệu pháp dược lý.
Cam kết thực hiện các biện pháp can thiệp sức khỏe có thể giúp giảm cân, cải thiện sức khỏe và có chất lượng cuộc sống tốt hơn.
Phân loại béo phì
Có ba loại béo phì dựa trên phạm vi BMI:
Phân loại
BMI
Độ I
25-29.9
Độ II
Trên 30
Độ III
Trên 40
Phạm vi BMI dựa trên tác động của lượng mỡ thừa trong cơ thể lên sức khỏe, tuổi thọ và nguy cơ phát triển các biến chứng sức khỏe liên quan đến cân nặng của một cá nhân.
Kết quả BMI: 25 trở lên
Những người có BMI bằng hoặc trên 25 có thể bị béo phì.
Các tổ chức y tế hiện nay công nhận béo phì là một căn bệnh mãn tính nhưng có thể kiểm soát được, được điều trị bằng phương pháp điều trị giảm cân toàn diện.
Khi BMI tăng lên trong phạm vi được coi là béo phì, thì yếu tố nguy cơ của một số bệnh mãn tính cũng tăng theo.
BMI cao hơn (lớn hơn hoặc bằng 30) có mối liên hệ đáng kể về mặt thống kê với một số tình trạng bệnh lý. Các tình trạng này bao gồm nhưng không giới hạn ở - bệnh tim mạch, tiểu đường típ 2, viêm xương khớp và nhiều loại ung thư khác nhau.
BMI không phải là chẩn đoán béo phì mà thay vào đó có thể được sử dụng để sàng lọc các rủi ro sức khỏe.
Những người có BMI bằng hoặc trên 30 được khuyến cáo nên tham khảo ý kiến bác sĩ được đào tạo về quản lý béo phì.
Có nhiều phương án điều trị béo phì đã được khoa học chứng minh. Các phương án điều trị phụ thuộc vào nhu cầu cụ thể của từng cá nhân, tình trạng sức khỏe hiện tại và các biến chứng sức khỏe liên quan đến cân nặng.
Các phương án điều trị có thể bao gồm sự kết hợp của các phương án sau:
Ăn uống lành mạnh
Tăng cường hoạt động thể chất
Liệu pháp hành vi
Thay thế bữa ăn/chế độ ăn ít năng lượng
Liệu pháp dược lý
Phẫu thuật thu nhỏ dạ dày*
30 kèm bệnh liên quan đến béo phì (theo guidleline Việt Nam 2022)
Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm: Thông tin này không thay thế cho lời khuyên của chuyên gia y tế. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về sức khỏe của mình, bạn nên liên hệ với bác sĩ đa khoa hoặc một chuyên gia y tế đủ điều kiện khác.
Tại sao BMI lại quan trọng?
Béo phì là một căn bệnh mãn tính cần được chăm sóc y tế. Đối với hầu hết các nhóm dân số, tình trạng thừa cân hoặc béo phì (BMI lớn hơn hoặc bằng 25) có liên quan đến nguy cơ tử vong cao hơn và nguy cơ mắc các bệnh đi kèm cao hơn.
Việc sàng lọc béo phì có thể tính đến ngưỡng BMI. Béo phì cũng có thể là một chỉ báo về các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn trong tương lai có thể cần được tư vấn y tế.
Nhìn chung, BMI của bạn càng cao trong phạm vi được coi là béo phì hoặc sống chung với béo phì thì nguy cơ mắc các bệnh mãn tính khác liên quan đến béo phì càng cao, bao gồm:
Bệnh tiểu đường típ II
Bệnh tim mạch
Đột quỵ
Huyết áp cao
Vô sinh
Trầm cảm và rối loạn lo âu
Bệnh tim mạch vành
Rối loạn lipid máu
Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu bia (NAFLD)/Viêm gan nhiễm mỡ không do rượu bia (NASH)
Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD)
Hội chứng chuyển hóa (MetS)
Tiểu không tự chủ
Ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn và các vấn đề về hô hấp
Bệnh thận mãn tính
Nhiều loại ung thư: bao gồm nhưng không giới hạn ở - ung thư vú, đại tràng, nội mạc tử cung, thực quản, thận, buồng trứng và tuyến tụy
Viêm xương khớp gối
Bệnh sỏi mật
Huyết khối
Bệnh gút
Nguy cơ tử vong tăng so với những người có BMI khỏe mạnh
Nếu bạn lo lắng về bất kỳ căn bệnh nào trong số những căn bệnh này và mối liên quan của chúng với BMI của bạn, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để biết thêm thông tin và đánh giá.
Hiểu về BMI cho các nhóm dân tộc khác nhau
Bằng chứng cho thấy sự phân bố mỡ và thành phần cơ thể khác nhau giữa các nhóm dân tộc nhất định.
Những người có một số nhóm dân tộc nhất định có thể có nguy cơ sức khỏe cao hơn hoặc thấp hơn so với những người có cùng nhóm dân tộc khác có cùng BMI.
Điều này có nghĩa là một số nhóm có thể có khuynh hướng mắc các bệnh liên quan đến béo phì như bệnh tiểu đường típ 2 hoặc bệnh tim chẳng hạn. Do đó, dựa trên yếu tố di truyền của bạn, bạn có thể gặp nhiều rủi ro sức khỏe hơn liên quan đến tình trạng thừa cân.
Điều này đã dẫn đến các đề xuất về ngưỡng BMI cụ thể dựa trên nhóm dân tộc.
Ví dụ, các giá trị ngưỡng BMI thấp hơn đã được đề xuất cho một số nhóm dân tộc châu Á. Ví dụ, giảm giá trị ngưỡng xuống 3 đơn vị đối với nhóm dân tộc Indonesia, Singapore và Hồng Kông là người Hoa.
Điều này là do nhóm dân tộc châu Á có xu hướng có lượng mỡ cơ thể cao hơn ở mức BMI thấp hơn. Do đó, nguy cơ mắc các biến chứng sức khỏe liên quan tăng cao hơn so với các nhóm dân tộc khác.
Trong phần bên dưới, nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa BMI và các nhóm dân tộc khác nhau. Những yếu tố này có thể được cân nhắc khi xác định xem hành động có phù hợp với bạn hay không.
Nhóm dân tộc Nam Á và BMI (người Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan)
Trong một nghiên cứu so sánh dân số người Singapore gốc Ấn Độ, gốc Malaysia, gốc Trung Quốc và người da trắng ở Singapore, người Ấn Độ có tỷ lệ mỡ cơ thể cao nhất ở mức BMI tương đương. Tỷ lệ mỡ cơ thể cao hơn có liên quan đến các yếu tố nguy cơ tim mạch lớn hơn.
Dân số Ấn Độ được chứng minh là có cùng lượng mỡ cơ thể ở mức BMI là 26, như người da trắng có BMI là 30, ngưỡng được coi là béo phì.
Khi so sánh với các nhóm dân tộc da trắng, người Trung Quốc và thổ dân, một nghiên cứu phát hiện ra rằng dân số Nam Á có tỷ lệ mỡ cơ thể trên khối lượng nạc cao hơn. Điều này cho thấy dân số Nam Á có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao hơn.
Dân số gốc Nam Á sống ở Vương quốc Anh có tỷ lệ mắc bệnh tim mạch vành và đột quỵ cao hơn người da trắng. Cả bệnh tim mạch vành và đột quỵ đều liên quan đến mỡ cơ thể và sự phân bố mỡ cơ thể.
Nhóm dân tộc Đông Á và BMI (Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc)
Một nghiên cứu về dân số Đông Á cho thấy những người có BMI từ 25 trở lên có nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch, bệnh tim mạch vành và đột quỵ cao hơn khi so sánh với phạm vi tham chiếu thường liên quan đến một BMI nhất định.
Trong nghiên cứu về dân số Đài Loan, nguy cơ tử vong tăng đáng kể ở những người có BMI lớn hơn hoặc bằng 25. Những phát hiện này ủng hộ nhu cầu định nghĩa béo phì ở dân số Đông Á theo cách khác, hạ ngưỡng BMI xuống 5 đơn vị từ 30 xuống 25.
Tương tự như vậy, dữ liệu cho thấy đối với dân số Nhật Bản, béo phì nên được phân loại là BMI lớn hơn hoặc bằng 25.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng dân số Châu Á có tỷ lệ mỡ cơ thể cao hơn so với người da trắng đối với một BMI nhất định. Dân số Châu Á cũng có nguy cơ mắc các bệnh đi kèm cao hơn như tiểu đường típ 2, tăng huyết áp và tăng lipid máu.
Nhóm dân tộc Đông Nam Á và BMI (người Việt Nam, Thái Lan, Philippines, Indonesia, Malaysia)
Trong một nghiên cứu về dân số Thái Lan, chu vi vòng eo được chứng minh là yếu tố dự báo bệnh tiểu đường tốt hơn BMI. Điều này có thể là do hầu hết các nghiên cứu đánh giá mối liên hệ giữa BMI với nguy cơ tử vong đều được tiến hành trên nhóm dân số gốc Âu (người da trắng).
Theo một nghiên cứu đa sắc tộc ở Singapore, nhóm dân số gốc Malaysia có tỷ lệ mỡ cơ thể cao hơn người da trắng ở mức BMI tương đương. Dữ liệu cho thấy lượng mỡ cơ thể trung bình ở người da trắng béo phì (BMI 30) có thể được tìm thấy ở người gốc Malaysia có BMI là 27.
Các nghiên cứu về nhóm dân số Đông Nam Á ở California cho thấy người Mỹ gốc Philippines và người Mỹ gốc Việt Nam có khả năng mắc bệnh tiểu đường típ 2 cao hơn đáng kể so với người da trắng. Do đó, những nhóm dân số như vậy nên tính đến việc thừa cân/béo phì có thể làm tăng các yếu tố nguy cơ mắc bệnh tiểu đường típ 2.
Nhóm người Dân Đảo Thái Bình Dương và BMI
Một số nhóm người Dân Đảo Thái Bình Dương có tỷ lệ mỡ cơ thể thấp hơn so với người da trắng ở cùng BMI, mặc dù không phải tất cả các nhóm dân tộc được coi là 'người đảo Thái Bình Dương' đều như vậy.
Một nghiên cứu cho thấy người dân đảo Thái Bình Dương bị thừa cân hoặc béo phì có khả năng mắc bệnh tăng huyết áp cao hơn đáng kể so với người da trắng.
Người Hawaii bản địa được chứng minh là có khả năng mắc bệnh tiểu đường cao gấp 3 lần so với người da trắng, trên tất cả các nhóm BMI.
Nhóm dân tộc Latinh & Tây Ban Nha và BMI
Một nghiên cứu phát hiện ra rằng đối với những nhóm dân tộc có cùng BMI, người Mexico có tổng lượng mỡ cơ thể cao hơn và ít cơ xương hơn so với người da trắng.
Một nghiên cứu riêng phát hiện ra rằng người Mỹ gốc Mexico có tỷ lệ béo phì cao hơn so với người da trắng, nhưng tỷ lệ mắc bệnh tăng huyết áp liên quan thấp hơn.
Tương tự như vậy, nghiên cứu về nhóm dân tộc Latinh ở Hoa Kỳ cho thấy họ có khả năng mắc bệnh tiểu đường cao gấp đôi so với người da trắng, bất kể nhóm BMI nào.
Nhiều nghiên cứu về dân số gốc Tây Ban Nha/Mỹ Latinh đã chỉ ra rằng ngưỡng BMI và chu vi vòng eo để dự đoán khả năng mắc các bệnh mãn tính phải khác nhau đối với từng nhóm dân tộc.
Nhóm dân tộc da đen và BMI
Tại Hoa Kỳ, sự khác biệt về BMI giữa các nhóm dân số chiếm gần 30% sự khác biệt về tỷ lệ tử vong của người da đen và người da trắng ở nhóm phụ nữ trong độ tuổi 40-79.
Khi so sánh người da trắng có BMI là 25, nguy cơ mắc bệnh tiểu đường típ 2 tương đương ở nhóm dân số da đen được ghi nhận ở mức BMI thấp hơn (từ 21-23). Đối với nhóm dân số da trắng có BMI là 30, nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tương đương ở nhóm dân số da đen ở mức BMI thấp hơn 0,1–4 đơn vị (26–29,9).
Nhóm dân tộc Trung Đông và BMI
Một nghiên cứu được tiến hành tại Ả Rập Xê Út đã nêu bật hạn chế của việc sử dụng ngưỡng BMI hiện tại (≥30) trong chẩn đoán béo phì ở nhóm dân số Ả Rập Xê Út và có thể là cả nhóm dân số Ả Rập. Nghiên cứu đề xuất hạ ngưỡng BMI đối với bệnh béo phì xuống 27 để phản ánh chính xác các rủi ro sức khỏe liên quan đến béo phì ở những nhóm dân số này.
Trong một nghiên cứu được tiến hành tại Thụy Điển, nguy cơ mắc bệnh tiểu đường của người da trắng béo phì (BMI là 30) tương đương với nam giới Iraq có BMI là 28,5 và phụ nữ Iraq có BMI là 27,5.
Đây là một trong những yếu tố chính quyết định bệnh tiểu đường típ 2, ngụ ý rằng dân số Iraq có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tiểu đường và rối loạn lipid máu cao hơn.
Khi quan sát dân số ở Jeddah, Ả Rập Xê Út, các nhà nghiên cứu báo cáo rằng phụ nữ béo phì có nguy cơ mắc tiền tiểu đường, tiểu đường và rối loạn lipid máu cao hơn. Nam giới trong cùng một dân số bị béo phì có nguy cơ mắc bệnh huyết áp cao hơn.
Nhóm dân tộc da trắng và BMI
Các dân số da trắng được nghiên cứu cho thấy có nguy cơ tử vong cao hơn liên quan đến BMI cao hơn, so với dân số da đen có mức BMI tương đương.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng nguy cơ mắc bệnh tim mạch vành, đột quỵ và bệnh tim cao hơn liên quan đến béo phì ở dân số da trắng.
BMI ở những nhóm dân số đặc biệt
BMI có thể gây hiểu lầm trong một số trường hợp. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng BMI có thể dự đoán kém chính xác hơn về nguy cơ mắc bệnh ở một số nhóm người:
Người cao tuổi
Vận động viên
Những người có vóc dáng cao hoặc thấp
Những kiểu cơ thể có nhiều khối cơ hơn
Ví dụ, ở một số nhóm dân số như vận động viên ưu tú hoặc người tập thể hình, BMI cao không tương quan trực tiếp với tình trạng sức khỏe của họ. Khối lượng cơ tăng lên và do đó cân nặng cũng làm tăng BMI của họ.
Bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể trung bình khác nhau như thế nào theo các nhóm và danh mục cụ thể:
Mô tả
Nam
Nữ
Chất béo thiết yếu
2 - 5 %
10 - 13 %
Vận động viên
6 - 13 %
14 - 20 %
Thể lực
14 - 17 %
21 - 24 %
Có thể chấp nhận được
18 - 24 %
25 - 31 %
Béo phì
>25 %
>32 %
BMI & giới tính
Hiện tại, không có phép tính BMI riêng cho phụ nữ và nam giới. Tuy nhiên, mặc dù giới tính không được đưa vào phép tính BMI, nhưng sự khác biệt về mặt sinh lý giữa các giới tính có thể ngụ ý sự khác biệt về mức độ rủi ro ở một BMI nhất định.
Nam giới: Về mặt phân bổ trọng lượng, có báo cáo rằng nam giới có xu hướng tích tụ mỡ ở phần thân trên, bao gồm cả bụng.
Béo phì bụng và nồng độ mỡ nội tạng cao hơn ở nam giới dẫn đến nguy cơ mắc bệnh tim và tiểu đường típ 2 cao hơn.
Phụ nữ: Mặc dù phụ nữ có xu hướng có tỷ lệ mỡ cơ thể cao hơn nam giới, nhưng lượng mỡ tích tụ ở phụ nữ có xu hướng phân bố ở hông và mông.
Do sự khác biệt về lượng mỡ tích tụ, phụ nữ có thể có nguy cơ mắc các bệnh đi kèm liên quan đến béo phì thấp hơn so với nam giới có cùng BMI hoặc BMI tương tự.
BMI & độ tuổi
Các phép tính BMI của người lớn không tính đến độ tuổi. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng trong khi béo phì làm tăng nguy cơ tử vong ở mọi lứa tuổi, thì mối tương quan này mạnh hơn nhiều ở những người dưới 50 tuổi.
Tăng cân nhanh khi còn nhỏ đã được chứng minh là ngụ ý tăng cân nhiều hơn trong thời kỳ thanh thiếu niên và trưởng thành. Do đó, tăng cân khi còn nhỏ là một chỉ báo mạnh về tình trạng béo phì khi trưởng thành. Một nghiên cứu cho thấy 40% trẻ em béo phì sẽ trở thành người lớn béo phì.
Trong khi BMI được diễn giải khác nhau đối với trẻ em và thanh thiếu niên so với người lớn, thì ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các hướng dẫn về BMI cũng nên dành riêng cho nhóm người lớn.
Trẻ em & thanh thiếu niên
Diễn giải BMI ở trẻ em và thanh thiếu niên phụ thuộc vào cả độ tuổi và giới tính. Điều này là do trẻ em nữ và trẻ em nam phát triển với tốc độ khác nhau, với lượng mỡ trong cơ thể thay đổi trong các giai đoạn phát triển như tuổi dậy thì.
Béo phì ở trẻ em đã được chứng minh là một yếu tố dự báo mạnh mẽ về nhiều bệnh liên quan đến béo phì như tiểu đường típ 2, rối loạn lipid máu và ngưng thở khi ngủ. Trẻ em béo phì cũng có nhiều khả năng bị căng thẳng về mặt tâm lý hơn. Điều này có thể bao gồm lòng tự trọng thấp, rối loạn lo âu và các triệu chứng trầm cảm.
Nếu bạn là cha mẹ lo lắng về sức khỏe của con mình liên quan đến cân nặng của chúng, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được hướng dẫn về cách quản lý cân nặng và các phương án điều trị có thể.
Người lớn tuổi
Thành phần cơ thể chúng ta tự nhiên thay đổi theo tuổi tác. Theo thống kê, lượng mỡ trong cơ thể tăng lên khi trưởng thành, trong khi tổng khối lượng cơ cũng giảm theo tuổi tác.
Khối lượng cơ và sức mạnh được coi là quan trọng để duy trì hoạt động thể chất.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi sử dụng các phép tính BMI chuẩn, tình trạng thừa cân nhẹ có liên quan đến việc giảm nguy cơ tử vong so với phạm vi cân nặng 'bình thường' ở những người lớn tuổi.
Phép tính BMI chuẩn cũng có thể đánh giá thấp hoặc đánh giá cao lượng mỡ thừa mà người cao tuổi mang theo. Do đó, các đánh giá như chu vi vòng eo được khuyến nghị là lựa chọn tốt hơn khi đo lượng mỡ trong cơ thể ở người cao tuổi.
Chẩn đoán béo phì
Chẩn đoán béo phì không chỉ giới hạn ở việc đo BMI. Tuy nhiên, BMI có thể giúp xác định những người sẽ cải thiện sức khỏe nhờ kiểm soát béo phì.
Xét nghiệm chẩn đoán thường được yêu cầu trong quá trình đánh giá béo phì ban đầu, với mục đích phát hiện các vấn đề về chuyển hóa và cá nhân hóa các lựa chọn điều trị. Việc sàng lọc thường bao gồm nhiều loại xét nghiệm trong phòng thí nghiệm khác nhau:
HbA1C
Xét nghiệm chức năng thận điện giải (creatinine, eGFR)
Tổng cholesterol, HDL- và LDL-cholesterol, triglyceride
Alanine aminotransferase (ALT)
Sàng lọc ung thư phù hợp với độ tuổi
Ngoài các xét nghiệm này, các chuyên gia y tế có thể áp dụng phương pháp chẩn đoán toàn diện để hiểu rõ nguyên nhân cơ bản gây béo phì. Phương pháp tiếp cận toàn diện nhằm mục đích phát hiện các yếu tố tiềm ẩn góp phần gây béo phì ở một người và do đó cung cấp một chương trình điều trị cá nhân hóa.
Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về chẩn đoán toàn diện về béo phì.
Vòng eo so với BMI
Để hiểu rõ hơn về sức khỏe, có thể thực hiện các chẩn đoán và phép đo khác cùng với BMI (ví dụ: vòng eo).
Vòng eo là phép đo gián tiếp lượng mỡ bụng, trong khi BMI là biểu thị lượng mỡ toàn thân. Do đó, vòng eo được coi là phép đo chính xác hơn về nguy cơ sức khỏe liên quan đến béo phì, chẳng hạn như bệnh đi kèm và tử vong.
Các nhà nghiên cứu khuyến nghị nên sử dụng vòng eo cùng với BMI để đánh giá chính xác hơn các yếu tố nguy cơ sức khỏe của một cá nhân.
Bất kể BMI là bao nhiêu, bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn lo lắng về sức khỏe của mình.
Các chương trình quản lý cân nặng có thể có liên quan nếu số đo vòng eo của bạn bằng hoặc vượt quá:
Nam: 90cm trở lên
Nữ: 80cm trở lên
Vòng eo càng lớn thì nguy cơ sức khỏe càng cao. Bạn có thể cân nhắc các chương trình điều trị béo phì nếu số đo vòng eo của bạn như sau:
Nam: 90cm trở lên
Nữ: 80cm trở lên
Có thể có BMI cao hơn và vẫn khỏe mạnh không?
Thông thường, những người bị béo phì có nhiều tình trạng sức khỏe được gọi chung là hội chứng chuyển hóa.
Việc sàng lọc hội chứng chuyển hóa được khuyến nghị cho phần lớn những người có BMI cao hơn.
Điều này bao gồm việc tìm kiếm các yếu tố rủi ro chuyển hóa liên quan đến béo phì, bao gồm:
Vòng eo
Mức triglyceride cao
Mức cholesterol HDL 'tốt'
Mức cholesterol LDL 'xấu'
Huyết áp cao
Đường huyết cao
Phải có ít nhất ba yếu tố rủi ro chuyển hóa thì mới được chẩn đoán mắc hội chứng chuyển hóa. Do đó, hội chứng chuyển hóa được định nghĩa là một nhóm các tình trạng và có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim, tiểu đường típ 2 và đột quỵ.
Khỏe mạnh về mặt chuyển hóa khi sống chung với béo phì
Mối liên hệ giữa béo phì và các biến chứng liên quan đến béo phì là mạnh nhưng không tuyệt đối.
Một số người bị béo phì không mắc hội chứng chuyển hóa và được báo cáo là có nguy cơ sức khỏe hạn chế ở BMI cao hơn. Nhóm này được định nghĩa là những người béo phì khỏe mạnh về mặt chuyển hóa.
Những người này có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường và bệnh tim thấp hơn so với những người béo phì khác mắc hội chứng chuyển hóa.
Tuy nhiên, các hướng dẫn lâm sàng chỉ rõ rằng những người khỏe mạnh về mặt chuyển hóa sống chung với bệnh béo phì không thể được coi là "khỏe mạnh về mặt y khoa". Họ có nguy cơ tử vong cao hơn, cũng như các tình trạng không liên quan đến chuyển hóa khác như trầm cảm, đau lưng và ngưng thở khi ngủ.
Mặc dù không có các yếu tố nguy cơ chuyển hóa, một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng những người khỏe mạnh về mặt chuyển hóa sống chung với bệnh béo phì có khả năng phát triển các bất thường về chuyển hóa trong vòng 10 năm. Điều này có nghĩa là họ vẫn có nguy cơ tiến triển đến trạng thái chuyển hóa không lành mạnh.
Nếu bạn không biểu hiện các triệu chứng bệnh mãn tính liên quan đến bệnh béo phì, bạn có thể cân nhắc tham khảo ý kiến bác sĩ để đánh giá các yếu tố nguy cơ chuyển hóa của mình.
Việc áp dụng lối sống lành mạnh hơn có thể giúp nhóm nguy cơ này ngăn ngừa các biến chứng y khoa và tránh tăng cân thêm.
Lịch sử của BMI
BMI được nhà toán học người Bỉ, Lambert Adolphe Jacques Quetelet, đưa ra vào giữa thế kỷ 19.
Mặc dù không phải là bác sĩ, Quetelet đã giới thiệu khái niệm về trung bình xã hội. Ông đã ghi nhận mối quan hệ giữa cân nặng và chiều cao trong cái đầu tiên được gọi là "Chỉ số Quetelet".
Sau đó, Keys và cộng sự đã phổ biến phép đo này, mô tả nó là Chỉ số khối cơ thể và sử dụng nó như một phân loại trong các nghiên cứu dựa trên dân số.
BMI đã được áp dụng vào các hoạt động y tế hiện đại, đặc biệt là ở các xã hội phương Tây có tỷ lệ béo phì gia tăng.
Hạn chế của BMI
BMI là phép đo đơn giản và khách quan, có thể dễ dàng thực hiện bởi bác sĩ hoặc bất kỳ ai quan tâm đến sức khỏe của họ.
Tuy nhiên, ngoài những hạn chế đã thảo luận trước đó, bạn cũng có thể cân nhắc rằng các phép đo BMI không tính đến những điều sau:
Các yếu tố nguy cơ di truyền liên quan đến các bệnh liên quan đến béo phì như hội chứng chuyển hóa.
Các yếu tố về môi trường và lối sống khác ngoài béo phì có thể góp phần gây ra nguy cơ mắc bệnh mãn tính.
Phân bố mỡ cơ thể của từng cá nhân.
Điều quan trọng cần nhớ là béo phì không phải là chỉ báo chắc chắn về tình trạng sức khỏe kém, cũng giống như việc có cân nặng "bình thường" không có nghĩa là bạn khỏe mạnh.
BMI của bạn không định nghĩa bạn, nhưng việc biết và hiểu BMI của bạn có thể là một công cụ hữu hiệu để kiểm soát sức khỏe của chính bạn.
Tham khảo ý kiến bác sĩ để thảo luận về cân nặng và tình trạng sức khỏe của bạn và đánh giá những hành động cần thực hiện.
Kết luận
Có một mối quan hệ quan trọng giữa lượng mỡ trong cơ thể của một người và tác động đến sức khỏe của chúng ta. Các nghiên cứu đã chứng minh những rủi ro sức khỏe liên quan đến cả hai thái cực của phổ BMI.
Nhiều yếu tố không liên quan đến cân nặng có thể khiến bạn có nguy cơ mắc các bệnh mãn tính (như dân tộc và di truyền). Điều quan trọng là phải nhận thức được những yếu tố này và cách chúng có thể góp phần vào nguy cơ của bạn nếu bạn bị béo phì.
Mức BMI lớn hơn hoặc bằng 30 có liên quan đến việc tăng tỷ lệ tử vong và nguy cơ biến chứng sức khỏe. Việc sàng lọc béo phì nên tính đến ngưỡng BMI như vậy.
Có những người "khỏe mạnh về mặt chuyển hóa" vẫn duy trì các vấn đề sức khỏe hạn chế ở mức BMI cao hơn. Tuy nhiên, béo phì vẫn có thể làm tăng các nguy cơ sức khỏe khác cho những người như vậy so với những người có BMI thấp hơn.
Đối với phần lớn những người bị béo phì, nên sàng lọc hội chứng chuyển hóa.
Hiểu được BMI của mình có thể giúp bạn tìm ra phạm vi cân nặng khỏe mạnh và xác định cách tốt nhất để đạt được hoặc duy trì phạm vi đó cùng với nhóm chăm sóc sức khỏe của bạn. Đối với hầu hết mọi người, BMI trên 25 làm tăng các yếu tố nguy cơ sức khỏe.
BMI của bạn nên được sử dụng làm hướng dẫn và là bước đầu tiên để hiểu được cân nặng và chiều cao của bạn. Các chuyên gia y tế khuyến nghị nên tuân thủ chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh - bất kể BMI hiện tại của bạn là bao nhiêu.
Đối với BMI bằng hoặc trên 25, có thể cần thực hiện các hành động khác ngoài chế độ ăn uống và tập thể dục. Tham khảo ý kiến bác sĩ là cách tốt nhất để xác định giải pháp phù hợp cho bạn.
Tìm kiếm lời khuyên y tế nếu bạn có bất kỳ lo ngại nào về cân nặng của mình.
Yumuk, V et al, “European Guidelines for Obesity Management in Adults” Obes Facts. 2015 Dec; 8(6): 402–424. Published online 2015 Dec 5. doi: 10.1159/000442721
Garvey, W T et al, “American Association of Clinical Endocrinologists and American College of Endocrinology comprehensive clinical practice guidelines for medical care of patients with obesity.” Endocrine Practice 2016;22:1–203. DOI:https://doi.org/10.4158/EP161365.GL
Guh, D P et al, “The incidence of co-morbidities related to obesity and overweight: A systematic review and meta-analysis,” BMC Public Health, vol. 9, no. 1, p. 88, 2009, doi: 10.1186/1471-2458-9-88.
Prospective Studies Collaboration, “Body-mass index and cause-specific mortality in 900000 adults: collaborative analyses of 57 prospective studies,” Lancet, vol. 373, no. 9669, pp. 1083–1096, Mar. 2009, doi: 10.1016/S0140-6736(09)60318-4.
Hussain, A et al, “Type 2 Diabetes and obesity: A review” Journal of Diabetology, June 2010; 2:1
Katzmarzyk, P T et al, “Body mass index and risk of cardiovascular disease, cancer and all-cause mortality” Can. J. Public Health, vol. 103, no. 2, pp. 147–151, 2012, doi: 10.1007/BF03404221.
Kurth, T et al, “Prospective Study of Body Mass Index and Risk of Stroke in Apparently Healthy Women,” Circulation, vol. 111, no. 15, pp. 1992–1998, Apr. 2005, doi: 10.1161/01.CIR.0000161822.83163.B6.
Landi, F et al, “Body Mass Index is Strongly Associated with Hypertension: Results from the Longevity Check-Up 7+ Study” Nutrients. 2018 Dec; 10(12): 1976. Published online 2018 Dec 13. doi: 10.3390/nu10121976
Dağ, Z Ö et al, “Impact of obesity on infertility in women,” J. Turkish Ger. Gynecol. Assoc., vol. 16, no. 2, pp. 111–117, Jun. 2015, doi: 10.5152/jtgga.2015.15232.
Moussa, O M et al, “Effect of body mass index on depression in a UK cohort of 363037 obese patients: A longitudinal analysis of transition,” Clin. Obes., vol. 9, no. 3, p. e12305, Jun. 2019, doi: https://doi.org/10.1111/cob.12305.
Zhao, G et al, “Depression and anxiety among US adults: associations with body mass index,” Int. J. Obes., vol. 33, no. 2, pp. 257–266, 2009, doi: 10.1038/ijo.2008.268.
Lamon-Fava, S et al, “Impact of Body Mass Index on Coronary Heart Disease Risk Factors in Men and Women,” Arterioscler. Thromb. Vasc. Biol., vol. 16, no. 12, pp. 1509–1515, Dec. 1996, doi: 10.1161/01.ATV.16.12.1509.
Van Hemelrijck, M et al, “Longitudinal study of body mass index, dyslipidemia, hyperglycemia, and hypertension in 60,000 men and women in Sweden and Austria” Published: June 13, 2018https://doi.org/10.1371/journal.pone.0197830
Loomis, A K et al, “Body Mass Index and Risk of Nonalcoholic Fatty Liver Disease: Two Electronic Health Record Prospective Studies,” J. Clin. Endocrinol. Metab., vol. 101, no. 3, pp. 945–952, Mar. 2016, doi: 10.1210/jc.2015-3444.
Zafar, S et al, “Correlation of gastroesophageal reflux disease symptoms with body mass index,” Saudi J. Gastroenterol., vol. 14, no. 2, pp. 53–57, Apr. 2008, doi: 10.4103/1319-3767.39618.
Han, T S et al, “A clinical perspective of obesity, metabolic syndrome and cardiovascular disease,” JRSM Cardiovasc. Dis., vol. 5, pp. 2048004016633371–2048004016633371, Feb. 2016, doi: 10.1177/2048004016633371.
Subak, L L et al, “Obesity and Urinary Incontinence: Epidemiology and Clinical Research Update” J Urol. 2009 Dec; 182(6 Suppl): S2–S7 doi: 10.1016/j.juro.2009.08.071
Romero-Corral, A et al, “Interactions Between Obesity and Obstructive Sleep Apnea - Implications for Treatment” Chest. 2010 Mar; 137(3): 711–719. doi: 10.1378/chest.09-0360
Herrington, W G et al, “Body-mass index and risk of advanced chronic kidney disease: Prospective analyses from a primary care cohort of 1.4 million adults in England,” PLoS One, vol. 12, no. 3, p. e0173515, Mar. 2017, [Online]. Available: https://doi.org/10.1371/journal.pone.0173515.
Bhaskaran, K et al, “Body-mass index and risk of 22 specific cancers: a population-based cohort study of 5.24 million UK adults,” Lancet, vol. 384, no. 9945, pp. 755–765, Aug. 2014, doi: 10.1016/S0140-6736(14)60892-8.
Zheng, H et al, “Body mass index and risk of knee osteoarthritis: Systematic review and meta-analysis of prospective studies,” BMJ Open, vol. 5, no. 12, 2015, doi: 10.1136/bmjopen-2014-007568.
Su, Y P et al, “Strong association between metabolically-abnormal obesity and gallstone disease in adults under 50 years” BMC Gastroenterol 19, 117 (2019). https://doi.org/10.1186/s12876-019-1032-y
Yang, G et al, “The effects of obesity on venous thromboembolism: A review” Open J Prev Med. 2012 Nov; 2(4): 499–509. doi: 10.4236/ojpm.2012.24069
Bai, L et al, “Incident gout and weight change patterns: a retrospective cohort study of US adults” Arthritis Res Ther. 2021; 23: 69. Published online 2021 Mar 2. doi: 10.1186/s13075-021-02461-7
Klatsky, A L et al, “Body Mass Index and Mortality in a Very Large Cohort: Is It Really Healthier to Be Overweight?,” Perm. J., vol. 21, pp. 16–142, 2017, doi: 10.7812/TPP/16-142.
Heymsfield, S B et al, “Why are there race/ethnic differences in adult body mass index-adiposity relationships? A quantitative critical review,” Obes. Rev., vol. 17, no. 3, pp. 262–275, Mar. 2016, doi: 10.1111/obr.12358.
Cossrow, N et al, “Race/Ethnic Issues in Obesity and Obesity-Related Comorbidities,” J. Clin. Endocrinol. Metab., vol. 89, no. 6, pp. 2590–2594, Jun. 2004, doi: 10.1210/jc.2004-0339.
Deurenberg-Yap, M et al, “The paradox of low body mass index and high body fat percentage among Chinese, Malays and Indians in Singapore.” Int J Obes Relat Metab Disord. 2000 Aug;24(8):1011-7. doi: 10.1038/sj.ijo.0801353. PMID: 10951540.
Valentino, G et al, “Body fat and its relationship with clustering of cardiovascular risk factors” Nutr Hosp. 2015;31(5):2253-2260 ISSN 0212-1611 • CODEN NUHOEQ S.V.R. 318
Lear, S A et al, “Ethnic Variation in Fat and Lean Body Mass and the Association with INS Resistance” The Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism, Volume 94, Issue 12, 1 December 2009, Pages 4696–4702, https://doi.org/10.1210/jc.2009-1030
Tillin, T et al, “The relationship between metabolic risk factors and incident cardiovascular disease in Europeans, South Asians, and African Caribbeans: SABRE (Southall and Brent Revisited) -- a prospective population-based study,” J. Am. Coll. Cardiol., vol. 61, no. 17, pp. 1777–1786, Apr. 2013, doi: 10.1016/j.jacc.2012.12.046.
Chen, Y et al, “Association between body mass index and cardiovascular disease mortality in east Asians and south Asians: pooled analysis of prospective data from the Asia Cohort Consortium,” BMJ Br. Med. J., vol. 347, p. f5446, Oct. 2013, doi: 10.1136/bmj.f5446.
Wen, C P et al, “Are Asians at greater mortality risks for being overweight than Caucasians? Redefining obesity for Asians” Public Health Nutrition, 12(4), 497-506. doi:10.1017/S1368980008002802
J. S. for the S. of O. The Examination Committee of Criteria for `Obesity Disease’ in Japan, “New Criteria for `Obesity Disease’ in Japan,” Circ. J., vol. 66, no. 11, pp. 987–992, 2002, doi: 10.1253/circj.66.987.
Zheng, W et al, “Association between Body-Mass Index and Risk of Death in More Than 1 Million Asians,” N. Engl. J. Med., vol. 364, no. 8, pp. 719–729, Feb. 2011, doi: 10.1056/NEJMoa1010679.
Aekplakorn, W et al, “Obesity indices and cardiovascular risk factors in Thai adults.” Int J Obes 30, 1782–1790 (2006). https://doi.org/10.1038/sj.ijo.0803346
Choi, S E et al, “Do Risk Factors Explain the Increased Prevalence of Type 2 Diabetes Among California Asian Adults?” J Immigr Minor Health. 2011; 13(5): 803–808. Published online 2010 Oct 9. doi: 10.1007/s10903-010-9397-6
Young, D R et al, “Associations of overweight/obesity and socioeconomic status with hypertension prevalence across racial and ethnic groups,” J. Clin. Hypertens., vol. 20, no. 3, pp. 532–540, Mar. 2018, doi: https://doi.org/10.1111/jch.13217.
Maskarinec, G et al, “Diabetes Prevalence and Body Mass Index Differ by Ethnicity: The Multiethnic Cohort” Ethn Dis. 2009; 19(1): 49–55. PMCID: PMC2702477
Aleman-Mateo, H et al, “Elderly Mexicans have less muscle and greater total and truncel fat compared to African-Americans and Caucasians with the same BMI” J Nutr Health Aging. 2009 Dec; 13(10): 919. doi: 10.1007/s12603-009-0252-1
Cossrow, N et al, “Race/Ethnic Issues in Obesity and Obesity-Related Comorbidities” The Journal of Clinical Endocrinology & Metabolism, Volume 89, Issue 6, 1 June 2004, Pages 2590–2594, https://doi.org/10.1210/jc.2004-0339
Berber, A et al, “Anthropometric indexes in the prediction of type 2 diabetes mellitus, hypertension and dyslipidaemia in a Mexican population,” Int. J. Obes., vol. 25, no. 12, pp. 1794–1799, 2001, doi: 10.1038/sj.ijo.0801827.
Chirinos, D A et al, “Defining Abdominal Obesity as a Risk Factor for Coronary Heart Disease in the U.S.: Results From the Hispanic Community Health Study/Study of Latinos (HCHS/SOL)” Diabetes Care Aug 2020, 43 (8) 1774-1780; DOI: 10.2337/dc19-1855
Elo, I T et al, “The Contribution of Weight Status to Black-White Differences in Mortality” Biodemography Soc Biol. 2017; 63(3): 206–220. doi: 10.1080/19485565.2017.1300519
Alammar, M et al, “Diagnostic Accuracy of Body Mass Index (BMI) When Diagnosing Obesity in a Saudi Adult Population in a Primary Care Setting, Cross Sectional, Retrospective Study” Diabetes Metab Syndr Obes. 2020; 13: 2515–2520. Published online 2020 Jul 14. doi: 10.2147/DMSO.S263063
Bennet, L et al, “BMI and waist circumference cut-offs for corresponding levels of INS sensitivity in a Middle Eastern immigrant versus a native Swedish population – the MEDIM population based study” BMC Public Health. 2016; 16: 1242. Published online 2016 Dec 9. doi: 10.1186/s12889-016-3892-1
Al-Raddadi, R et al, “The prevalence of obesity and overweight, associated demographic and lifestyle factors, and health status in the adult population of Jeddah, Saudi Arabia,” Ther. Adv. Chronic Dis., vol. 10, p. 2040622319878997, Jan. 2019, doi: 10.1177/2040622319878997.
Abell, J E et al, “Differences in Cardiovascular Disease Mortality Associated With Body Mass Between Black and White Persons,” Am. J. Public Health, vol. 98, no. 1, pp. 63–66, Jan. 2008, doi: 10.2105/AJPH.2006.093781.
Batsis, J A et al, “Diagnostic Accuracy of Body Mass Index to Identify Obesity in Older Adults: NHANES 1999–2004” Int J Obes (Lond). 2016 May; 40(5): 761–767. Published online 2015 Dec 1. doi: 10.1038/ijo.2015.243
Sperrin, M et al, “Body mass index relates weight to height differently in women and older adults: serial cross-sectional surveys in England (1992-2011)” J. Public Health (Oxf)., vol. 38, no. 3, pp. 607–613, Sep. 2016, doi: 10.1093/pubmed/fdv067.
Weir CB, et al, “BMI Classification Percentile And Cut Off Points.” In: StatPearls [Internet]. Treasure Island (FL): StatPearls Publishing; 2021 Jan
Nuttall, F Q. “Body Mass Index: Obesity, BMI, and Health: A Critical Review” Nutr Today. 2015 May; 50(3): 117–128. Published online 2015 Apr 7. doi: 10.1097/NT.0000000000000092
Karastergiou, K et al, “Sex differences in human adipose tissues – the biology of pear shape,” Biol. Sex Differ., vol. 3, no. 1, p. 13, 2012, doi: 10.1186/2042-6410-3-13.
Nauli, A M et al, “Why Do Men Accumulate Abdominal Visceral Fat?” Front. Physiol., vol. 10, p. 1486, Dec. 2019, doi: 10.3389/fphys.2019.01486.
Thorpe Jr., R J et al, “Aging, Obesity, and Mortality: Misplaced Concern About Obese Older People?” Res Aging. 2004 Jan 1; 26(1): 108–129. doi: 10.1177/0164027503258738
Yanovski, J A “Pediatric obesity. An introduction” Appetite. 2015 Oct 1; 93: 3–12. Published online 2015 Mar 30. doi: 10.1016/j.appet.2015.03.028
Chung, S “Growth and Puberty in Obese Children and Implications of Body Composition” J Obes Metab Syndr. 2017 Dec; 26(4): 243–250. Published online 2017 Dec 30. doi: 10.7570/jomes.2017.26.4.243
St-Onge, M P et al, “Body composition changes with aging: The cause or the result of alterations in metabolic rate and macronutrient oxidation?” Nutrition. 2010 Feb; 26(2): 152–155. Published online 2009 Dec 8. doi: 10.1016/j.nut.2009.07.004
Studenski, S A et al, “The FNIH sarcopenia project: rationale, study description, conference recommendations, and final estimates,” J. Gerontol. A. Biol. Sci. Med. Sci., vol. 69, no. 5, pp. 547–558, May 2014, doi: 10.1093/gerona/glu010.
McKee, A et al, “Obesity in the Elderly” In: Endotext [Internet]. South Dartmouth (MA): MDText.com, Inc.; 2000.
Van Der Valk, E S et al, “A comprehensive diagnostic approach to detect underlying causes of obesity in adults” Obesity Reviews First published: 01 March 2019 https://doi.org/10.1111/obr.12836
Hetherington-Rauth, M et al, “Comparison of direct measures of adiposity with indirect measures for assessing cardiometabolic risk factors in preadolescent girls” Nutr J. 2017; 16: 15. Published online 2017 Feb 23. doi: 10.1186/s12937-017-0236-7
Janssen, I et al, “Waist circumference and not body mass index explains obesity-related health risk” The American Journal of Clinical Nutrition, Volume 79, Issue 3, March 2004, Pages 379–384, https://doi.org/10.1093/ajcn/79.3.379
Robert Ross et al, “Waist circumference as a vital sign in clinical practice: a Consensus Statement from the IAS and ICCR Working Group on Visceral Obesity” Nat Rev Endocrinol. 2020; 16(3): 177–189. Published online 2020 Feb 4. doi: 10.1038/s41574-019-0310-7
Yanai, H et al, “The underlying mechanisms for development of hypertension in the metabolic syndrome” Nutr J. 2008; 7: 10. Published online 2008 Apr 17. doi: 10.1186/1475-2891-7-10
Lin, H et al, “The prevalence, metabolic risk and effects of lifestyle intervention for metabolically healthy obesity: a systematic review and meta-analysis: A PRISMA-compliant article” Medicine (Baltimore). 2017 Nov; 96(47): e8838. Published online 2017 Nov 27. doi: 10.1097/MD.0000000000008838
Hinnouho, G M et al, “Metabolically healthy obesity and risk of mortality: does the definition of metabolic health matter?,” Diabetes Care, vol. 36, no. 8, pp. 2294–2300, Aug. 2013, doi: 10.2337/dc12-1654.
Eknoyan, G. “Adolphe Quetelet (1796–1874) — the average man and indices of obesity” Nephrology Dialysis Transplantation, Volume 23, Issue 1, January 2008, Pages 47–51, https://doi.org/10.1093/ndt/gfm517
Abou Ziki, M D et al, “Metabolic Syndrome: Genetic Insights into Disease Pathogenesis” Curr Opin Lipidol. 2016 Apr; 27(2): 162–171. doi: 10.1097/MOL.0000000000000276
Kolb, H et al, “Environmental/lifestyle factors in the pathogenesis and prevention of type 2 diabetes.” BMC Med 15, 131 (2017). https://doi.org/10.1186/s12916-017-0901-x
Jensen, M D “Role of Body Fat Distribution and the Metabolic Complications of Obesity” J Clin Endocrinol Metab. 2008 Nov; 93(11 Suppl 1): S57–S63. doi: 10.1210/jc.2008-1585
Wildman, R P et al, “The Obese Without Cardiometabolic Risk Factor Clustering and the Normal Weight With Cardiometabolic Risk Factor Clustering: Prevalence and Correlates of 2 Phenotypes Among the US Population (NHANES 1999-2004),” Arch. Intern. Med., vol. 168, no. 15, pp. 1617–1624, Aug. 2008, doi: 10.1001/archinte.168.15.1617.
Bhaskaran, K et al, “Association of BMI with overall and cause-specific mortality: a population-based cohort study of 3.6 million adults in the UK” Lancet Diabetes Endocrinol. 2018 Dec; 6(12): 944–953. doi: 10.1016/S2213-8587(18)30288-2
Guideline điều trị béo phì của BYT VN 2022 Số:2892 /QĐ-BYT-QUYẾT ĐỊNH Về việc ban hành tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh béo phì" 22/10/2022"
VN24DH00004
BMI
Tìm trung tâm y tế quản lý cân nặng gần nhà bạn
Hãy tham khảo chuyên gia y tế về các cách điều trị có thể hỗ trợ kiểm soát cân nặng
Chỉ số khối cơ thể (BMI) là một phương pháp đo kích thước cơ thể, dùng để ước tính lượng mỡ trong cơ thể, sàng lọc mức độ béo phì và các nguy cơ sức khỏe. Công cụ giúp phân loại tình trạng thiếu cân, thừa cân, béo phì dựa trên chiều cao và cân nặng
CHƯƠNG TRÌNH QUẢN LÝ BÉO PHÌ: LÀM THẾ NÀO ĐỂ TÌM RA BÀI TẬP THỂ LỰC TỐT NHẤT CHO BẠN
Tập thể dục thường xuyên thực sự rất quan trọng để có thể quản lý cân nặng một cách lành mạnh. Thường xuyên vận động còn đem lại những lợi ích khác, như cải thiện sức khoẻ tim-phổi, khả năng vận động và sức bền. Ngoài ra, tập thể dục còn giúp nâng cao chất lượng cuộc sống thông qua việc cải thiện sức khoẻ tinh thần và xã hội. Dưới đây là những điều bạn cần biết trước khi bắt đầu kế hoạch hoạt động thể lực như một phần của việc quản lý cân nặng - bao gồm cả những bài tập luyện tốt nhất có cơ sở khoa học và các mẹo giúp bạn bắt đầu luyện tập.
THỪA CÂN BÉO PHÌ: GÁNH NẶNG SỨC KHỎE CỦA THẾ KỶ 21
Béo phì là chủ đề thường xuyên được thảo luận và còn nhiều tranh cãi trên các diễn đàn sức khỏe, kinh tế và cả cộng đồng. Đã và đang có rất nhiều báo cáo khoa học không chỉ thuần túy về béo phì mà còn về mối liên quan của béo phì với các yếu tố kinh tế xã hội khác. Quá nhiều bài viết về thừa cân béo phì trên mạng xã hội, trong đó rất nhiều thông tin chưa được kiểm chứng khiến cộng đồng lúng túng, khó tiếp cận chủ động trong công cuộc phòng chống thừa cân béo phì một cách hiệu quả và toàn diện.